Xét nghiệm m.áu thường xuyên rất quan trọng để theo dõi sức khỏe tổng thể và phát hiện sớm các dấu hiệu sức khỏe tiềm ẩn…
Xét nghiệm công thức m.áu toàn phần (CBC)
Công thức m.áu toàn bộ (CBC) là một xét nghiệm toàn diện nhằm đ.ánh giá các thành phần khác nhau trong m.áu, bao gồm hồng cầu (RBC), bạch cầu (WBC) và tiểu cầu. Xét nghiệm này cung cấp thông tin cần thiết về sức khỏe tổng thể của m.áu và có thể giúp xác định các tình trạng như thiếu m.áu, n.hiễm t.rùng và rối loạn đông m.áu. Cụ thể, CBC đo các thông số như nồng độ huyết sắc tố, hematocrit, số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu. Những bất thường trong các thông số này có thể chỉ ra các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn cần được đ.ánh giá.
Một số xét nghiệm m.áu cần thiết nên thực hiện hàng năm như một phần trong quy trình chăm sóc sức khỏe
Xét nghiệm lipid
Xét nghiệm mỡ m.áu có thể giúp xác định nguy cơ phát triển các biến chứng tim mạch… Xét nghiệm lipid là xét nghiệm m.áu đánh giá mức cholesterol và các dấu hiệu lipid khác liên quan đến sức khỏe tim mạch. Xét nghiệm này đo các thành phần lipid khác nhau, bao gồm cholesterol toàn phần, cholesterol lipoprotein mật độ thấp (LDL), cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) và chất béo trung tính.
Mức cholesterol LDL và chất béo trung tính tăng cao, cùng với mức cholesterol HDL thấp, là những yếu tố nguy cơ đáng kể đối với bệnh tim và đột quỵ. Theo dõi nồng độ lipid hàng năm có thể giúp xác định các cá nhân có nguy cơ phát triển các biến chứng tim mạch và hướng dẫn các biện pháp can thiệp như điều chỉnh lối sống hoặc điều trị bằng thuốc để kiểm soát mức cholesterol và giảm nguy cơ tim mạch.
Xét nghiệm đường huyết
Xét nghiệm đường huyết là điều cần thiết để đ.ánh giá lượng đường trong m.áu và sàng lọc bệnh tiểu đường hoặc t.iền tiểu đường. Hai xét nghiệm đường huyết phổ biến bao gồm đường huyết lúc đói (FBS) và Hemoglobin A1c (HbA1c). Đường huyết lúc đói đo lượng đường trong m.áu sau một đêm nhịn ăn và cung cấp cái nhìn sâu sắc về khả năng điều chỉnh lượng đường trong cơ thể. Mức đường huyết tăng cao có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường hoặc t.iền tiểu đường, cần được phát hiện và quản lý sớm để ngăn ngừa các biến chứng như bệnh tim, bệnh thận và tổn thương thần kinh.
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp đ.ánh giá chức năng của tuyến giáp. Tuyến này đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa quá trình trao đổi chất, sản xuất năng lượng và các chức năng khác nhau của cơ thể. Các xét nghiệm chức năng tuyến giáp phổ biến bao gồm hormone kích thích tuyến giáp (TSH), T4 (thyroxine) và T3 (triiodothyronine). Mức TSH giúp đ.ánh giá chức năng tổng thể của tuyến giáp, trong khi mức T4 và T3 đo mức độ hormone tuyến giáp hoạt động lưu thông trong m.áu. Những bất thường trong chức năng tuyến giáp có thể dẫn đến các triệu chứng như mệt mỏi, thay đổi cân nặng, thay đổi tâm trạng và thay đổi nhịp tim. Kiểm tra tuyến giáp thường xuyên là điều cần thiết để phát hiện các rối loạn tuyến giáp như suy giáp hoặc cường giáp.
Xét nghiệm m.áu bảng chuyển hóa toàn diện (CMP)
Việc theo dõi thường xuyên các thông số CMP có thể giúp xác định sớm các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn và tạo điều kiện can thiệp kịp thời để duy trì sức khỏe tối ưu và ngăn ngừa các biến chứng. Bảng chuyển hóa toàn diện (CMP) là xét nghiệm m.áu toàn diện nhằm đ.ánh giá các dấu hiệu trao đổi chất và chức năng cơ quan khác nhau. Xét nghiệm này thường bao gồm các phép đo đường huyết, chất điện giải (natri, kali, clorua, bicarbonate), chức năng thận (creatinine, nitơ urê m.áu), chức năng gan (bilirubin, albumin, men gan) và nồng độ protein.
CMP cung cấp thông tin có giá trị về sức khỏe trao đổi chất tổng thể và chức năng của các cơ quan quan trọng như thận và gan. Những bất thường trong kết quả CMP có thể chỉ ra các tình trạng như bệnh thận, rối loạn chức năng gan, mất cân bằng điện giải hoặc rối loạn chuyển hóa.
Việc theo dõi thường xuyên các thông số CMP có thể giúp xác định sớm các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn và tạo điều kiện can thiệp kịp thời để duy trì sức khỏe tối ưu và ngăn ngừa các biến chứng.
Phương pháp mới: Biết trước cơn nhồi m.áu cơ tim tận 6 tháng
Một xét nghiệm m.áu mới được phát triển bởi Đại học Uppsala (Thụy Điển) hứa hẹn cứu nhiều người khỏi cơn nhồi m.áu cơ tim c.hết người.
Theo SciTech Daily, các nhà khoa học đã phân tích mẫu m.áu của hơn 169.000 người, từ đó xác định hơn 90 phân tử có liên quan đến nguy cơ hình thành một cơn nhồi m.áu cơ tim.
Sự tiến bộ này mang đến cơ hội vàng cho các cá nhân tự đ.ánh giá nguy cơ bị nhồi m.áu cơ tim của mình, từ đó tăng cường các nỗ lực chăm sóc sức khỏe để “thay đổi số phận”.
Nhồi m.áu cơ tim là nguyên nhân gây t.ử v.ong phổ biến – Ảnh: SCITECH DAILY
Theo GS Johan Sundstrm từ Đại học Uppsala, tác giả chính của nghiên cứu, một số nghiên cứu dạng quan sát trước đó cho thấy thời điểm trước khi xảy ra cơn nhồi m.áu cơ tim rất biến động.
Ví dụ, nguy cơ tăng gấp đôi trong vòng 1 tháng sau khi ly hôn và gấp 5 lần trong vòng 1 tuần sau khi một người bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư.
Vì vậy, GS Sundstrm và các cộng sự đưa ra giả thuyết rằng một số quá trình sinh học quan trọng đã hoạt động trong những tháng trước khi xảy ra cơn đau tim.
Các quá trình sinh học này được đại diện bởi 90 phân tử nói trên. Một xét nghiệm m.áu đã được phát triển dựa trên điều đó.
Các thử nghiệm cho thấy phương pháp mới này có thể giúp dự đoán được cơn nhồi m.áu cơ tim trong vòng 6 tháng trước khi nó thực sự bắt đầu.
“Chúng tôi biết rằng mọi người cảm thấy tương đối ít động lực để thực hiện các phương pháp phòng ngừa. Nhưng nếu bạn sớm phát hiện ra mình có nguy cơ nhồi m.áu cơ tim cao, có lẽ bạn sẽ có động lực lớn hơn để ngăn chặn điều đó” – GS Sundstrm nói.
Các biện pháp ngăn chặn có thể vô cùng đơn giản nếu như một người biết được vị “tử thần” đang treo lơ lửng vài tháng trước: Bỏ hút thuốc, giảm bớt rượu, tập thể dục nhiều hơn hay thay đổi chế độ ăn.
Các dạng xét nghiệm nguy cơ cũng giúp người bệnh biết rõ tình hình để kiểm soát tốt hơn bệnh tim mạch của mình, cũng như tiến hành các bước tầm soát chuyên sâu hơn, điều trị can thiệp để tránh hậu quả nghiêm trọng.
Nhồi m.áu cơ tim tim hiện là nguyên nhân gây t.ử v.ong phổ biến nhất thế giới và đang gia tăng trên toàn cầu. Nhiều người có nguy cơ cao không được xác định hoặc điều trị dự phòng.